Ðức
Cha Hồ Ngọc Cẩn (1876-1948)
Một nhà Văn hóa Giáo Dục lớn của Tiền Bán
Thế kỷ xX
GS Nguyễn Lý-Tưởng
Không chỉ riêng các
cựu học sinh hai trường Hồ Ngọc Cẩn Bùi Chu (miền Bắc
VN trước 1954) và trường Hồ Ngọc Cẩn Gia Ðịnh (từ
1954 đến 1975) mà cả hàng triệu người Công Giáo cũng
như nhân sĩ, trí thức và đồng bào từ Bắc chí Nam
đã biết đến nhà đạo đức kiêm văn hóa giáo dục
của tiền bán thế kỷ 20: Ðức Giám Mục Ða Minh Hồ
Ngọc Cẩn (1876-1948). Ngài đã viết cả trăm quyển sách
trong đó có hơn 30 tác phẩm lớn trước tác, dịch
thuật thuộc đủ mọi thể loại từ văn chương, triết
học, khoa học, tôn giáo, đạo đức... sách giáo khoa,
toán học, sinh ngữ, cổ ngữ v.v... đến các loại tự
điển Pháp, Hán, La Tinh... Ðó là chưa kể các bài báo
ngài viết dưới nhiều bút hiệu như Ngô Ký Ẩn, Ngô
Tri Dược, Ngô Ký Vãng, Ngô Tri Lễ, Hồ Ngọc Cẩn v.v...
đăng trên các báo xuất bản từ Bắc chí Nam như Nam Kỳ
Ðịa Phận (xuất bản tại Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19),
báo Vì Chúa (xuất bản tại Huế từ 1933), bán nguyệt san
Ða Minh (xuất bản tại Bùi Chu khoảng 1936) v.v... Ngài đã
xây dựng nhiều trường học, tu viện, chủng viện, bệnh
viện, cô nhi viện, lập nhà in, nhà xuất bản và tổ
chức ra nhiều hội đoàn Công Giáo... Ðã một thời,
ngài được xem là nhà thông thái của 3 nước Ðông
Dương (Việt, Miên, Lào) của tiền bán thế kỷ 20, các
Linh Mục người Âu cũng phải kiêng nễ.
Thể theo lời yêu cầu của một số cựu
giáo sư và cựu học sinh trường Hồ Ngọc Cẩn, và
với sự trợ giúp của Giáo Sư Lê Ngọc Bích, người
bạn cùng lớp hiện còn ở lại Việt Nam, chúng tôi xin
ghi lại một vài nét về Ðức Giám Mục Ða Minh Hồ Ngọc
Cẩn, một nhà văn hóa giáo dục lớn của Việt Nam tiền
bán thế kỷ 20 để ghi nhớ công ơn ngài và cũng để
kỷ niệm những năm dạy học tại trường Hồ Ngọc Cẩn
Gia Ðịnh trước 30-4-1975.
HỒ NGỌC CA: MỒ CÔI CHA,
LỚN LÊN NHỜ QUÊ MẸ
Ðức Cha Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 3
tháng 12 năm 1876 (18 tháng 10 Âm lịch năm Bính Tý) tại
xứ đạo Ba Châu (làng Vĩnh Lưu, xã Phú Lương, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên). Cha là Giuse Hồ Ngọc Thi (làm
nghề dạy học và thầy thuốc), mẹ là Anna Nguyễn Thị
Ðào (người làng Trường An thuộc giáo xứ Thợ Ðúc,
huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên). Ông bà sinh được
hai người con trai đặt tên là Hồ Ngọc Ca và Hồ Ngọc
Vịnh. Hồ Ngọc Ca về sau đổi tên là Hồ Ngọc Cẩn. Cha
mất sớm, mẹ đưa hai con về quê ngoại sinh sống.
Về nguồn gốc của ngài, nhiều người cho
biết quê nội của ngài ở làng Cổ Thành, phủ Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị, vì hoàn cảnh đặc biệt, gia đình
phải vào lập nghiệp ở Thừa Thiên. Bên họ nội không
theo Công Giáo. Khi ngài chịu chức Giám Mục thì người
làng Cổ Thành có cử một phái đoàn vào Tòa Giám
Mục Huế chúc mừng và mang theo gia phả của dòng họ
để nhận bà con. Nhưng ngài chỉ vui vẻ mời tất cả mọi
người vào dự tiệc mà không nhắc gì đến chuyện quá
khứ.
ÐI TU LÚC 13 TUỔI: CHĂM
HỌC, HỌC GIỎI
LM Phanxicô Xavie Trương Văn Thường, cha
xứ Trường An, là người đã giới thiệu cậu Hồ
Ngọc Ca (Cẩn) vào tu học tại Tiểu Chủng Viện An Ninh
(Cửa Tùng, Quảng Trị). Khi thi nhập học, cậu Hồ Ngọc Ca
đã không đủ điểm. May nhờ Cha Thường xin với Linh
Mục giám khảo (cha Izarn: Ý) và LM Giám Ðốc Tiểu Chủng
Viện (Cha Girard) cho cậu vào học thử vài tháng. Chú Ca
đã tiến bộ vượt bực, chỉ trong vài tháng đã theo
kịp chúng bạn và những năm sau đó đều dẫn đầu
lớp. Chương trình tại Tiểu Chủng Viện là 8 năm mà Hồ
Ngọc Ca chỉ học trong 6 năm là xong! Các Linh Mục cùng
thời với ngài đã kể lại rằng tất cả những sách
vở trong thư viện, Hồ Ngọc Ca đều đọc hết. Chú Ca
còn tự học thêm về sinh ngữ, cổ ngữ và các môn
khoa học thường thức khác. Sau khi Cha Thường qua đời
(1891) thì LM Allys (tức Cố Lý, cha xứ Phủ Cam) nhận chú
Hồ Ngọc Ca làm nghĩa tử. Cha Allys người Pháp về sau
làm Giám Mục Huế (thường gọi là Ðức Cha Lý).
HỒ NGỌC CA ÐỔI TÊN:
LINH MỤC HỒ NGỌC CẨN
Hồ Ngọc Ca học ở Tiểu Chủng Viện từ
1889 đến 1896. Vào Ðại Chủng Viện Phú Xuân ngày 5
tháng 8 năm 1896(*). Chịu phép cắt tóc ngày 17-12-1896, chịu
bốn chức nhỏ ngày 23-12-1899. Chịu chức Năm ngày
22-12-1900. Chịu chức Sáu ngày 22-2-1902. Chịu chức Linh Mục
ngày 21-12-1902 lúc mới 26 tuổi. Trước ngày chịu chức
Linh Mục, Thầy Hồ Ngọc Ca xin đổi tên là Hồ Ngọc Cẩn.
Từ 3 tháng 11 năm 1903, ngài làm cha Phó
ở Kẻ Văn (Quảng Trị) với Cha Gilbert (Cố Quý) và từ
8-8-1907 làm phó cho Cha Antôn Marillebau (Cố Nhiệm) cũng ở
giáo xứ Kẻ Văn.
Ngày 3-11-1907, làm cha xứ ở họ Kẻ Hạc
(Vạn Lộc) thuộc tỉnh Quảng Bình.
NGƯỜI VIỆT NAM ÐẦU TIÊN LÀM GIÁO SƯ
CHỦNG VIỆN
Tháng 9-1910 làm giáo sư tại Tiểu Chủng
Viện An Ninh là một giáo sư người Việt Nam đầu tiên.
Trước đó, các giáo sư toàn là người Âu Châu.
Ngài dạy các môn La Tinh, Pháp, Toán, Việt với một
phương pháp sư phạm rất tiến bộ, dễ hiểu, dễ nhớ,
trình bày rất rõ ràng, sáng sủa khiến cho học trò rất
thích thú.
BỀ TRÊN TIÊN KHỞI DÒNG THÁNH TÂM
Năm 1923 Ðức Cha Allys xin phép Tòa Thánh
lập Dòng Thánh Tâm, trụ sở tại Trường An (thuộc
giáo xứ Thợ Ðúc, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên). Năm 1924, sau khi cơ sở nhà Dòng được xây cất
xong, Cha Hồ Ngọc Cẩn được cử làm Bề Trên tiên
khởi của Dòng này. Trên 10 năm điều khiển Dòng này,
Cha Hồ Ngọc Cẩn đã xây dựng được 4 trường tiểu
học (Trường An, Phủ Cam, Kim Long, Lại Ân) và mở nhà in
"Thánh Tâm" (lúc đầu gọi là Trường An ấn
quán) để in sách báo, tài liệu Công Giáo của Giáo
Phận Huế. Cụ Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), Thượng Thư hưu
trí đã dâng cúng thửa vườn và nhà cửa để lập
cơ sở này. Các Cha Nguyễn Văn Thích (Phó Bề trên
Dòng) và Cha Ngô Ðình Thục (giáo sư) đã giúp Cha Hồ
Ngọc Cẩn xây dựng Dòng này.
GIÁM MỤC VN ÐẦU TIÊN CỦA GIÁO PHẬN BÙI
CHU
Lúc bấy giờ Ðức Cha Munagorri (Giám Mục
thứ 14 của GP Bùi Chu, người Tây Ban Nha) đã già yếu,
không thể làm việc được nữa, ngài thường ở
Khoái Ðồng, thành phố Nam Ðịnh với LM Casado (Cố Thuận)
chứ không ở Tòa Giám Mục. Ngài đề nghị cử LM
Hoàng Gia Huệ, chánh xứ Ninh Cường làm Giám Mục Phó.
Nhưng Ðức Khâm Sứ Tòa Thánh là Ðức Cha Columban Dreyer
ở Huế, sau khi đã tham khảo ý kiến nhiều người, liền
viết tờ trình lên Ðức Thánh Cha Piô XI đề nghị cử
LM Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn làm Giám Mục Phó Bùi Chu với
quyền kế vị và được Tòa Thánh chấp thuận.
Lễ tấn phong được tổ chức tại nhà
thờ chính tòa Phủ Cam, Huế ngày 29-3-1935 do Ðức Khâm
Sứ Tòa Thánh Columban Dreyer chủ lễ và hai Giám Mục
Chabanon (Ðức Cha Giáo ở Huế) và Ðức Cha Nguyễn Bá
Tòng (Phát Diệm) phụ phong. Tân Giám Mục Ða Minh Hồ
Ngọc Cẩn hiệu tòa Zenobis chọn khẩu hiệu: "Hết tình
nhẫn nhục và tận tâm giáo huấn." Ngài đã nhờ
cụ Tôn Thất Sa (1882-1980), một giáo sư hội họa ở Huế
vẽ huy hiệu hình thuẫn, giữa là Thánh Tâm Chúa Giêsu
chiếu ánh sáng ra hai bên, một bên là sông Hương núi
Ngự, một bên là nhà thờ Bùi Chu, phía dưới là
cuốn sách với tràng hạt mân Côi.
Ngày 17-5-1936, Ðức Giám Mục Pedro Munagorri
chính thức trao quyền cai quản giáo phận cho Ðức Cha Ða
Minh Hồ Ngọc Cẩn và một tháng sau, ngài mất. Theo Sắc
Lệnh của Tòa Thánh ngày 9-3-1936 hai tỉnh Thái Bình và
Hưng Yên được tách ra để thành lập giáo phận mới
Thái Bình nên giáo phận Bùi Chu chỉ còn lại phần đất
thuộc tỉnh Bùi Chu và một phần của tỉnh Nam Ðịnh.
GIÁM MỤC CHỦ TRƯƠNG NÓI TIẾNG VIỆT
Thời bấy giờ người ta thích nói tiếng
Pháp hoặc tiếng La Tinh, ngay cả khi không có sự hiện
diện của người ngoại quốc. Nhưng Ðức Cha Ða Minh Hồ
Ngọc Cẩn thì chủ trương nói tiếng Việt, đi đâu cũng
nói tiếng Việt, ngay cả khi phát biểu trong các hội nghị
quốc tế.
Ngày 1 tháng 8 năm 1935, đoàn xe khởi
hành từ Huế đưa Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn ra Bùi Chu, trong
bữa tiệc mừng, LM Gallego (Cố Nam) đọc chúc từ bằng
tiếng Pháp kể công lao 300 năm truyền giáo của Dòng Ða
Minh... Ðức Cha Hồ Học Cẩn, xin phép được đáp từ
bằng tiếng Việt. Khi ngài đến thăm Chủng Viện Ninh
Cường và Ðại Chủng Viện Nam Ðịnh, các Thầy đọc bài
chúc mừng bằng tiếng La Tinh, ngài đáp từ bằng tiếng
Việt. Ngài nói: "Là người Việt Nam cả, nói bằng
tiếng mẹ đẻ cho nó thân tình." Năm 1937, ngài tham
dự Ðại Hội Thánh thể tổ chức tại Manila (Phi Luật
Tân) với sự hiện diện của hàng trăm Giám Mục đủ
mọi quốc tịch. Thông thường thì các Giám Mục Việt Nam
phát biểu bằng tiếng Pháp vì thời đó nước ta thuộc
quyền cai trị của người Pháp. Nhưng Ðức Cha Ða Minh Hồ
Ngọc Cẩn lại phát biểu bằng tiếng Việt, làm cho mọi
người rất ngạc nhiên. Báo Nam Kỳ Ðịa Phận số 1148 ra
ngày 8 tháng 4 năm 1937 có đăng bài phát biểu này.
GIÁM MỤC CÓ NHIỀU SÁNG KIẾN, CHỦ TRƯƠNG
CẢI CÁCH VÀ DÂN CHỦ
Sau khi nhận giáo phận, ngài cải tổ lại
các chủng viện, dân chủ hóa bằng cách tham khảo ý
kiến của các Linh Mục (bằng thư) trước khi bổ nhiệm
một vị nào vào hàng lãnh đạo trong giáo phận, một
loạt các quản hạt mới được đề cử thay thế các
vị cũ. Ngài thường nói với các Cha:"Linh Mục và
Giám Mục là anh em như thể tay chân." Ngài đích thân
giảng cấm phòng hàng năm cho các Linh Mục trong giáo
phận suốt 12 năm. Ngài chú trọng đào tạo nhân tài cho
tương lai, một số thầy được cho đi du học sau này là
các Linh Mục danh tiếng như LM Trần Văn Hiến Minh, LM Lâm
Quang Trọng, LM Vũ Ðức Trinh... Ngài xin phép Tòa Thánh
lập Ðại Chủng Viện Quần Phương riêng cho giáo phận
Bùi Chu để sinh viên khỏi qua Nam Ðịnh học... và đã
được Tòa Thánh chấp thuận (khai giảng 1940). Ngài lập
ra Dòng Nữ Ðức Mẹ Mân Côi Bùi Chu (vận động từ
năm 1940 đến 1946 mới được Tòa Thánh chấp thuận).
Ngài lập ra trường Trung Linh, mời các Sư huynh Dòng La
San về dạy. Ngài thành lập bệnh viện Thánh Tâm Bùi
Chu, cô nhi viện (Sở Dục Anh, Sở Cô Nhi) ở Bùi Chu.
Ngài thân hành chăm sóc tận tay cơm nước cho các cô
nhi. Nạn đói năm 1945, những vùng hỏa hoạn, thiên tai,
bão lụt như Kiên Chính, Quần Liêu, Chung Lao, Bắc Ninh,
ngài đem hết lúa gạo của Nhà Chung ra giúp cho dân.
Ngài hô hào bài trừ tệ đoan xã hội, bãi bỏ những
hủ tục, cờ bạc rượu chè... Ngài thành lập các hội
đoàn thiếu nhi, thanh niên và người lớn tuổi, hội
Tông Ðồ Cầu Nguyện (1938), Thanh Niên Công Giáo Nước
Nam (họp đại hội tại Phú Nhai năm 1938 quy tụ trên 10,000
đoàn viên), Dòng Ba Ða Minh, Ban Truyền Giáo Ðịa Phận...
NHÀ VĂN HÓA, GIÁO DỤC
Ngài là một nhà thông thái tại Ðông
Dương (Việt, Miên, Lào) thời bấy giờ. Cách đây hơn
100 năm mà ngài đã viết sách, viết báo, làm tự
điển, soạn sách dạy về khoa học. Ðặc biệt, ngài sưu
tầm những kinh do các Linh Mục xưa đặt ra, không có in
trong sách kinh thông thường (sách Nhựt khóa) như:
"Phép lần hột Rất Thánh Trái Tim Ðức Chúa
Giêsu," "Dọn mình trước và cám ơn sau khi rước
lễ," "sách Tháng Ðức Bà" (từ chữ Nôm
chuyển qua chữ quốc ngữ), biên soạn sách "Tháng
Ông Thánh Giuse" và "Tháng Rất Thánh Trái Tim
Ðức Chúa Giêsu" (theo kiểu sách Tháng Ðức Bà).
Sách "Vãn Sinh Nhựt" do đời xưa để lại viết
bằng chữ Nôm (ngài chuyển qua quốc ngữ và cho in để
phổ biến). Ngài làm ra sách "Cha mẹ dạy con."
Ngài đã biên soạn cuốn "Văn chương thi phú" sao
lục nhiều thơ văn của nhiều tác giả (trong đó cũng
có thơ của Hồ Xuân Hương) mục đích để cho các
trường Công Giáo học văn chương tiếng Việt. Ngài
cũng đã chọn những bài văn hay để in chung thành sách
"Tân Văn" làm sách đọc (cho học sinh và người
lớn). Ngài có tài làm thơ, viết văn, diễn thuyết, có
khi cao hứng thì đọc cả bài thơ lục bát thật dài...
Ngài cũng mở ra một khoa sư phạm mới khi dạy học.
Ngài rất thích dạy học và giảng giải bình dân, dễ
hiểu nên học trò rất thích nhất là các môn Triết
Học, Thần Học, Giáo Lý... ngài giảng giải rất rõ
ràng. Ngài giỏi cả Hán văn, Pháp văn, La tinh, đọc
sách, đọc báo nhiều nên kiến thức của ngài rất
uyên bác. Ngài dạy các môn Việt, Pháp, La Tinh, Toán,
Khoa Học trong các lớp Trung Học (Tiểu Chủng Viện) và
các môn Triết Học, Thần Học, La Tinh (tại Ðại Chủng
Viện)... Cụ Phan Bội Châu khi đọc bài: "Luận về
câu: Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo" của
Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn đã khen: "Văn chương như chém
sắt, chặt đanh." Từ khi còn là Linh Mục, ở xứ
nào, ngài cũng đem lại cho dân chúng một nếp sống
mới, một không khí hoạt động, tươi vui, chăm lo việc
học hành cho trẻ em, nâng cao dân trí... Thời trước
trong các nhà tu ít chú trọng đến các môn khoa học,
toán, văn chương Việt Nam, sinh ngữ... Chính ngài đã
đưa chương trình học các môn nói trên vào trong các
chủng viện, tu viện...
GIÂY PHÚT CUỐI
Ngoài 70 tuổi, nhưng ngài vẫn làm việc
như một người sức khỏe bình thường, viết sách, soạn
bài, giảng dạy, đi lại thăm viếng các nơi. Mùa Ðông
năm 1948 (Mậu Tý) miền Bắc rét lạnh khác thường,
ngài bị bệnh suyễn đang thời chiến tranh đi lại khó
khăn, thuốc men thiếu thốn, ngài phải tự tìm cách
chữa trị lấy, phương tiện rất giới hạn. Ðức Cha
Nguyễn Bá Tòng lúc bấy giờ đã nghỉ hưu, nghe tin ngài
bệnh nặng đã đến thăm vào sáng 26-11-1948 thấy ngài
còn tỉnh táo. Ngài đã chịu phép Xức Dầu Thánh dọn
mình chết. Nhưng đến chiều thì ngài bị té xỉu rồi dần
dần đi vào cơn mê. Gần nửa đêm thì ngài tỉnh lại
và cùng các Linh Mục đọc kinh "Phó thác linh
hồn" bằng tiếng La Tinh. Quá nửa đêm, ngài qua
đời một cách nhẹ nhàng. Lúc đó là 0 giờ 27 phút
khởi đầu ngày 27 tháng 11 năm 1948.
Ðức Giám Mục Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn với
46 năm Linh Mục và 13 năm Giám Mục. Hưởng thọ 72 tuổi.
Lễ an táng cử hành vào sáng 30-11-1948,
tháng đặc biệt cầu nguyện cho các linh hồn người quá
cố. Ngài được an táng bên trong nhà thờ chính tòa
Bùi Chu. Ðoàn người đi theo quan tài dài đến 5 cây
số, ngoài những giáo dân Công Giáo còn có rất nhiều
học trò và phụ huynh người bên lương, đặc biệt có
Thượng Tọa Thích Bảo Long đại diện Phật giáo.
Sau khi ngài qua đời, chính quyền quốc gia
tỉnh Bùi Chu (miền Bắc) đã lấy tên ngài đặt tên
trường Trung Học Công Lập Hồ Ngọc Cẩn (Bùi Chu). Năm
1954, trường di cư vào Nam lấy tên là Trung Học Hồ Ngọc
Cẩn Gia Ðịnh (trường Công Lập) và do các Linh Mục
điều khiển. Sau ngày 01-11-1963, các Linh Mục rút lui và
trường được chuyển giao cho các giáo sư công lập
điều khiển với cụ Nguyễn Văn Hiếu làm hiệu trưởng.
Sau ngày 30-4-1975, trường đổi tên là trường Nguyễn
Ðình Chiểu. Chế độ Cộng Sản VN chủ trương xóa tên
Hồ Ngọc Cẩn vì ngài là một nhân vật tôn giáo. Nhưng
nhóm cựu học sinh, cựu giáo sư trường Hồ Ngọc Cẩn
trong nước cũng như hải ngoại vẫn còn nhớ tên
trường cũ của mình (Bùi Chu trước 1954 và Gia Ðịnh
trước 1975) nên vẫn liên lạc với nhau dưới danh nghĩa
Hội Cựu Học Sinh trường Hồ Ngọc Cẩn.
Xin cám ơn Giáo Sư Lê Ngọc Bích (VN) đã
giúp cho chúng tôi các tài liệu về Ðức Giám Mục Ða
Minh Hồ Ngọc Cẩn để viết bài này.
(Nguyễn Lý Tưởng - Cựu Giáo sư trường
Hồ Ngọc Cẩn, Gia Ðịnh 1971-1975)
(*) Chú thích: Theo GS Lê Ngọc Bích, Thầy
Hồ Ngọc Ca vào Ðại Chủng Viện ngày 5-5-1896. Chúng tôi
theo tài liệu của Tòa TGM Huế: 05-8-1896.
Phụ Lục: Một số tác phẩm của Ðức
Cha Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn còn lưu lại:
1. Văn phạm La Tinh (02 cuốn)
2. Văn phạm tiếng Pháp (02 cuốn). Hai cuốn sách này
được biên soạn khúc chiết, rõ ràng, dễ nhớ, dễ
học, được giải thưởng của Ðức Khâm Sứ Tòa
Thánh.
3. Mẹo tiếng An Nam (tức Văn phạm chữ Quốc ngữ) (2
cuốn)
4. Toán pháp (02 cuốn)
5. Hán tự quy giảng (Văn phạm Hán văn)
6. Thường đàm nhật dụng, văn khế đơn tự.
7. Luận Quốc văn (02 cuốn)
8. Pháp tự khúc ca
9. Tán nữ khúc ca
10. Ngạn nhữ kinh thơ
11. Hán Việt thường đàm (nhà in Trường An Huế, 1942)
12. Văn chương thi phú An Nam (in lần thứ hai, nhà in
Truyền giáo hải ngoại, Hồng Kong, 1923). Tác phẩm đã
được cụ Phan Bội Châu khen ngợi.
13. Con muốn ở nhà Ðức Chúa Trời (In lần thứ ba,
Hồng Kông, nhà in Nazareth, 1930)
14. Tu viện trinh nữ.
15. Tu phân minh cảnh
16. Tu sĩ thần lương
17. Giúp Linh Mục cấm phòng (nhà in Bùi Chu, 1938)
18. Tháng Trái Tim Chúa Giêsu
19. Tháng Ðức Bà, tháng Thánh Giuse 20. Gẫm quanh năm
(dịch, 5 cuốn)
21. Phước họa thị phi (3 cuốn)
22. Tuồng (Bảy Mối)
23. Truy tầm chân đạo (nhà in Thánh gia Bùi Chu, 1951)
24. Sách cha mẹ dạy con
25. Thận chung truy viễn
26. Giáo nhơn hành thiện
27. Triết nhơn tri kỷ
28. Quê ta ở đâu?
29. Bổn Ðồng ấu (sách giáo lý cho thiếu nhi)
30. Tháng giáo thuyết minh (sách giáo lý cho người lớn)
Tài liệu tham khảo:
1. Tiểu sử các Linh Mục giáo phận Huế (Tòa TGM Huế)
1992
2. Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục Bùi Chu (LM Phạm Châu
Diên, 1990)
3. Nhân Vật Giáo Phận Huế (Lê Ngọc Bích, 2000 |